1. Khu di tích Núi Dành ở đâu
Quần thể Khu di tích Núi Dành Bắc Giang thuộc xã Liên Chung và Việt Lập huyện Tân Yên. Đây là nơi hội tụ tình huống đầy đủ cho phát triển du lịch văn hóa truyền thống, tâm linh và du lịch sinh thái. Tọa lạc trên đỉnh núi Dành là đền Dành, từ vị trí đền có thể nhìn bao quát toàn cảnh xung quanh và những vùng phụ cận của huyện. Đây là công trình văn hoá tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
2. Phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của núi Dành
Núi Dành tọa lạc nơi dòng sông Thương thơ mộng không xa, là dãy núi lớn thứ hai của huyện Tân Yên sau núi Đót (xã Phúc Sơn). Nơi đây có phong cảnh thiên nhiên đẹp với rừng thông khoảng 50 năm tuổi. Nhiều người đến núi Dành có chung nhận xét như đang ở trong rừng thông TP Đà Lạt (Lâm Đồng).
Với địa hình núi uốn lượn, quanh co, chỗ dốc, chỗ thoải, đến với núi Dành, hành khách sẽ được trải nghiệm 1 hành trình du lịch tâm linh sinh thái. Bao quanh núi là bạt ngàn rừng thông, bạch đàn xanh tốt, có nhiều cây đã được trồng nhiều năm. Không khí thoáng đãng, mát mẻ tạo cảm xúc thư thái. Đường lên núi Dành được xây bậc lát gạch với 345 bậc lên. Ngay dưới chân núi là giếng nhỏ, mang tên giếng Mũi Voi. Giếng sâu khoảng 2m, đã được xây bó bờ gạch và xi măng xung quanh. Người dân tương truyền giếng không lúc nào cạn nước.
3. Công trình văn hoá tín ngưỡng đền Dành
Tọa lạc ở núi Dành là đền Dành, công trình văn hoá tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Quần thể đền Dành gồm 3 đền: Đền Trình (dưới chân núi), đền Thượng (trên đỉnh núi) và đền Hạ (khu vực lưng chừng núi). Đền Dành thờ thần Cao Sơn, Quý Minh, khi sống là những vị tướng tài giỏi, thác đi trở thành những vị thần linh thiêng, hiển thánh lại âm phù, giúp dân trừ tai diệt họa, được nhân dân nhiều đời thờ phụng.
Không ai biết đúng đắn đền Dành được xây dựng từ khi nào nhưng căn cứ vào những tài liệu hiện vật di tích như cột đá, bát hương cổ, đồ tế khí, ngai thờ còn lưu giữ trong đền… thì công trình này được xây dựng từ thời Lê thế kỷ XVIII.
Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, nổi bật là trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi đền đã bị hủy hoại đi nhiều, không còn nguyên vẹn như xưa. Tuy nhiên, nhân dân nơi đây đã rất nhiều lần trùng tu, cải tạo, ngôi đền đã khang trang, đẹp tươi hơn nhưng vẫn còn lưu lại nhiều nét cổ kính, riêng biệt.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược VN, đền Dành và núi Dành là trạm tiền tiêu để bộ đội ta phục kích bảo vệ vùng tự do. Cũng tại nơi đây, vào ngày 13/4/1950 có 2 chiến sĩ du kích là Nguyễn Bá Giai và Nguyễn Đình Khái đã dũng mãnh hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cảnh giới canh gác tiền tiêu.
4. Câu chuyện về sản vật tiến Vua – sâm Nam
Đến với khu di tích núi Dành, hành khách không chỉ được chiêm ngưỡng phong cảnh mênh mông hùng vĩ mà còn được nghe câu chuyện lưu truyền trong dân gian về sản vật tiến Vua–sâm Nam của những người dân nơi đây. Chuyện kể rằng, ở một đỉnh núi nọ có hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống. Một hôm, người mẹ đột ngột lâm bệnh nặng nhưng nhà không có tiền chạy chữa. Anh thiếu niên đành lên núi tìm thuốc chữa bệnh cho mẹ. Đi tới gần tối vẫn không được gì, chàng trai ngồi nghỉ rồi ngủ thiếp đi dưới một gốc cây đại thụ to ở lưng chừng núi Dành.
Trong giấc mơ, anh thấy mình tìm được gốc sâm giúp mẹ. Tỉnh giấc, bàn tay vẫn nắm chặt một thân dây rất nhỏ. Đưa lên ngửi, chàng mới hay mình đã tìm ra cây sâm tiên nên vội đào củ đem về sắc thuốc cho mẹ uống. Được uống sâm quý, người mẹ vài ngày sau liền khỏi ốm.
Tính năng của loài sâm quý này càng trở nên ly kỳ, thú vị hơn và được ví như “tiên dược” khi giúp mẹ vua Tự Đức là Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (Từ Dụ) sáng mắt trở lại. Chuyện kể rằng thời vua Tự Đức, mẹ vua bị loà mắt. Thương mẹ, nhà vua đã tìm mọi thảo dược quý hiếm cũng như những bậc lang y tài giỏi lúc bấy giờ giúp chữa song bệnh ngày càng nặng.
Những lang y kỳ tài, những phương thuốc hay đều đã dùng cả nhưng không có kết quả. Vào lúc nhà Vua vô vọng, một vị quan dâng lên một loài sâm quý tại vùng núi Dành. Chẳng ngờ, sâm quý như thuốc tiên đã giúp đôi mắt thân mẫu nhà vua sáng lại. Bởi thế nên mới có câu ca: Sâm Nam nổi tiếng núi Dành/Chữa loà cho mắt lại lành như xưa”.
Cũng từ đó, sâm núi Dành được ví như kỳ thảo, “tiên dược”, trở thành sản vật tiến Vua hàng năm. Quan lại địa phương ra sức tìm kiếm sâm Nam làm quà biếu cấp trên và triều đình. Người dân địa phương vì cuộc sống mưu sinh cũng đổ xô vào rừng tìm sâm bán dẫn tới tình trạng hết sạch.
5. Lễ hội núi Dành
Khu vực núi Dành xưa có lễ hội Bảo Lộc Sơn nổi tiếng khắp vùng. Đầu thế kỷ XIX, Bảo Lộc Sơn là một tổng thuộc huyện Yên Thế, phủ Lạng Giang gồm 4 xã: Bảo Lộc Sơn, Chung Sơn, Tưởng Sơn và Kim Tràng. Lễ hội Bảo Lộc Sơn hàng năm tổ chức vào ngày 16, 17 tháng Giêng, trung tâm tại quần thể di tích đình Um Ngò, xã Việt Lập.
Lễ hội này là ngày hội tứ đình, còn gọi là tứ giáp, đặc trưng của những dòng họ: Thân, Giáp Nguyễn và Đồng…ở 4 làng: Kim Tràng, Khoát, Nguyễn và Um Ngò. 4 làng này có 4 ngôi đình, thờ 4 vị Thành Hoàng. Sau khi những làng Nguyễn, Kim Tràng, Khoát mở hội, thì rước kiệu về đình Um Ngò mở hội vào ngày 16 và 17 tháng Giêng, để rồi từ đó rước kiệu lên nghè Cả trên đỉnh núi Dành làm lễ mở đầu cho một năm. 4 lễ hội làng tụ lại thành lễ hội Bảo Lộc Sơn.
Phần hội gồm những trò chơi như đu cây, chọi gà, đấu vật, thả diều… Những ước mong cầu mưa gió thuận hòa, dân khang vật thịnh. Lễ hội Bảo Lộc Sơn được khôi phục lần đầu xuân năm mới 1996. Năm 2019, UBND xã Việt Lập tiếp tục tổ chức khôi phục lại lễ hội Bảo Lộc Sơn.
6. Nghệ thuật hát ví, hát ống – nét văn hóa độc đáo
Nhắc tới Liên Chung nhiều người biết tới nghệ thuật hát ví, hát ống – một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc bị lãng quên từ lâu nhưng nay đã được khôi phục trở lại. So với các loại hình dân ca khác, hát ví, hát ống có giai điệu đơn giản, gần gũi, dễ học, dễ thuộc, lời hát thường là những câu lục bát. Điểm mạnh của hát ví chính là ở ngôn từ phong phú, khả năng ứng biến linh hoạt của người hát cũng như sự sáng tạo trong lời bài hát. Trong quá trình hát, người hát có thể tự sáng tác sao cho phù hợp với hoàn cảnh.
Hát ống về bản chất vẫn là hát ví nhưng hai bên hát thông qua một dụng cụ là hai chiếc ống bằng tre có đường kính từ 7-10cm, dài chừng 15-20cm thông hai đầu, một đầu được bịt bằng da ếch, liên kết hai ống với nhau bởi một sợi dây tơ tằm buộc vào hai chiếc kim khâu. Khi hát, âm thanh làm các màng da ếch rung lên, tín hiệu âm thanh truyền qua sợi dây tới đầu ống bên kia, người nghe dù đứng xa hàng chục mét vẫn nghe rõ tựa như phát ra từ chiếc loa nhỏ. Đặc trưng của loại hình hát dân gian này là lối hát giao duyên, đối đáp nam – nữ.
7. Đặc sản nem nướng Liên Chung
Cùng với văn hóa truyền thống, văn hóa ẩm thực nơi đây cũng nổi tiếng gần xa với sản phẩm nem nướng Liên Chung. Nem là món ăn quen thuộc của người dân Việt Nam, được làm thịt lợn sống, rồi để lên men. Nem Liên Chung đặc biệt ở chỗ trước khi ăn phải nước trên than củi (ngày nay có thể nước bằng điện, ga, lò vi sóng). Khi đó thịt lợn trộn thính để lên men được làm chín từ nhiệt tạo ra một mùi thơm không thể lẫn vào đâu được. Nem Liên Chung chủ yếu làm phục vụ các đám cưới, quán ăn và bán cho du khách mua về làm quà.
Với tiềm năng du lịch hiện có cùng những nét văn hóa độc đáo và định hướng phát triển của huyện, có thể tin rằng khu di tích núi Dành sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn, những nét văn hóa nơi đây sẽ ngày càng được nhiều người biết đến.