Tham quan quần thể di tích đình chùa Khúc Toại

Chùa Khúc Toại nằm ở gần đường Đường Đê, xã Khúc Xuyên, cách trung tâm thành phố Bắc Ninh khoảng 2km về phía Tây. Đình Khúc Toại cũng được xây dựng từ lâu đời, nhưng đến thời Nguyễn được trùng tu và mở rộng với qui mô lớn. Trên câu đầu của tòa Tiền tế còn nguyên dòng chữ Hán ghi khắc năm trùng tu “Duy Tân Quý Sửu niên” (1913). Đình chùa Khúc Toại không những có cảnh quan đẹp, mà còn nổi bật với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật.

Nội dung chính

1. Đình chùa Khúc Toại ở đâu

Chùa Khúc Toại Bắc Ninh là một địa điểm du lịch tại Thành phố Bắc Ninh (Tỉnh Bắc Ninh thuộc vùng Đồng Bằng Sông Hồng). Cách thức trung tâm Tỉnh Bắc Ninh khoảng 3 km.

Chùa Khúc Toại nằm trong thôn Khúc Toại, là một làng cổ nằm vắt ngang con sông cổ Ngũ Huyện Khê. Cửa chùa hướng về phía Đông Nam, trước mặt là ao hồ và cánh đồng rộng lớn bốn mùa lúa xanh tươi tốt, sau lưng là cầu Chọi, chợ Chọi được đặt theo tên làng Chọi. 

Cầu Thôn Khúc Toại

2. Chùa Khúc Toại nổi bật với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật

Chùa Khúc Toại tọa lạc ở gần đường Đường Đê, xã Khúc Xuyên, cách thức trung tâm thành phố Bắc Ninh khoảng 2km về phía Tây. Đình Khúc Toại rất được xây dựng từ lâu đời, nhưng đến thời Nguyễn được trùng tu và mở rộng với qui mô to. Trên câu đầu của tòa Tiền tế còn nguyên dòng chữ Hán ghi khắc năm trùng tu “Duy Tân Quý Sửu niên” (1913). 

Đình chùa Khúc Toại không những có cảnh quan đẹp, mà còn nổi bật với những giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Chùa Khúc Toại có tên chữ“Diên Phúc tự”, theo văn bia từng là danh lam cổ tích của xứ Kinh Bắc. Ngôi chùa Diên Phúc còn bảo lưu được nhiều cổ vật quí hiếm: Hệ thống tượng Phật thời Lê, Nguyễn; tượng Tiến sĩ Nguyễn Thượng Nghiêm; bia đá, khánh đá, cây hương đá; đặc biệt là chuông đồng ghi tên chùa với niên đại “Phúc Thái 6” (1648) và đây là một trong những quả chuông cổ nhất của nước ta. Trên thân chuông ghi khắc chữ Hán bài Tự kể về những danh lam cổ tích của nước ta như: Tháp Bảo Thiên, chùa Quỳnh Lâm, tháp Phổ Minh, chùa Phả Lại và những báu vật thuộc “An Nam tứ khí” của những danh lam cổ tích trên; còn ghi khắc bài Minh ca ngợi quê hương Khúc Toại trù phú và văn hiến.

Chùa Khúc Toại

3. Đình Khúc Toại là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo và tiêu biểu của thời Nguyễn

Đình Khúc Toại cũng được xây dựng từ lâu đời, nhưng đến thời Nguyễn được trùng tu và mở rộng với qui mô lớn. Trên câu đầu của tòa Tiền tế còn nguyên dòng chữ Hán ghi khắc năm trùng tu “Duy Tân Quý Sửu niên” (1913). Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo và tiêu biểu của thời Nguyễn còn bảo lưu đến ngày nay. Tòa Đại đìnhbình đồ kiến trúc kiểu “tường chữ Đinh mái chữ Công” với các lớp mái đao cong uốn lượn duyên dáng bên bến nước, dòng sông. Bộ khung đình được dựng bằng gỗ lim trang trí lộng lẫy và nghệ thuật chạm khắc được tập trung ở tòa Tiền tế. Các nghệ nhân xưa của làng nghề Khúc Toại bằng nhiều thủ tháp nghệ thuật: Chạm nổi, chạm lộng, chạm thủng, chạm kênh bong đã thể hiện tài năng sáng tạo của mình ở ngôi đình. Trên các bộ phận kiến trúc như: vì nóc, con rường, cốn, đầu dư, kẻ, bảy đều được chạm khắc trang trí. Tòa tiền tế có 2 vì nóc gian giữa kết cấu “chồng rường” và đầu các con rường đều được chạm nổi hoa lá với nét chạm phóng khoáng. Các gian bên có vì nóc kiểu “ván mê” được chạm nổi đầu rồng mặt hổ phù với mặt lồi to, mũi nở, râu dài, bờm và tóc bay dựng ngược dữ tợn.

Tòa Đại đình

Hình tượng rồng mặt hổ phù nhằm đề cao vẻ uy nghiêm linh thiêng của ngôi đình. Các đầu dư chạm đầu rồng ngậm ngọc với nét chạm điêu luyện. Gian giữa có hai kẻ phía trước được tạo hình là hai con rồng lớn với đầy đủ các chi tiết đầu, thân, đuôi; nhưng lớp vẩy trên mình rồng lại làm những cụm hoa lá nở rộ. Hai bảy hiên gian giữa chạm nổi hình rồng bán thân đang cuộn mình trong những đám mây chầu vào đình. Còn các đầu bảy khác chạm nổi rồng lá. Đặc biệt bức cửa võng gian giữa được chạm với nhiều đề tài của đạo nho, đạo lão, đạo giáo như: Lưỡng long chầu nguyệt, long giáng, phượng vũ, long mã đồ thư, bát bửu…

Nghệ thuật chạm khắc của đình Khúc Toại không những thể hiện tài năng của các nghệ nhân xưa, mà còn gửi gắm những mơ ước về một xã hội hưng thịnh, no ấm. Cùng với giá trị kiến trúc điêu khắc, đình Khúc Toại còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như 20 đạo sắc phong của các triều vua cho người được thờ là Thánh “Tam Giang”, các thánh “Quý Minh”, “Trung Huệ”, “Đống Vinh” (đạo có niên đại sớm nhất là 1730, đạo có niên đại muộn nhất là 1924), 3 bia đá có niên đại Bảo Đại 3 (1928) cho biết về việc trùng tu đình vào thời Nguyễn; nhiều đồ thờ tự cổ quý như hương án, sập thờ, kiệu thờ, siêu đao, bát bửu, kiệu bát cống là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc của thời Lê, Nguyễn.

4. Lịch sử xây dựng chùa Khúc Toại

Theo truyền thuyết, làng Chọi được tiến sĩ Nguyễn Thượng Nghiêm cho xây dựng với quy mô lớn vào thời Lê, vì vậy, trong chùa Khúc Toại ngoài thờ Phật còn thờ ông Nguyễn Thượng Nghiêm làm Hậu Phật

Chùa được xây dựng từ lâu đời nhưng đến thời nhà Nguyễn mới được trùng tu và mở rộng với quy mô lớn. Trên cây đầu của tòa Tiền tế còn nguyên dòng chữ Hán ghi năm trùng tu “Duy Tân Quý Sửu niên” 1913. Tòa Đại đình có kiến trúc tường chữ Đinh mái chữ Công với những lớp mái đao cong uốn lượn mềm mại.

Đường Làng Khúc Toại

5. Chuông chùa Khúc Toại – Quả chuông cổ nhất được giữ nguyên vẹn ở nước ta

Đặc biệt, tại chùa Khúc Toại, còn lưu giữ quả chuông đồng ghi tên chùa “Tân tạo chú Hồng chung Diên Phúc tự” (tạm dịch: “Tạo mới chuông chùa Diên Phúc”), đúc ngày 23 tháng 10 năm Mậu Tý – 1648 (Niên đại Phúc Thái thứ sáu). Đây là một trong những quả chuông cổ nhất còn được lưu giữ nguyên vẹn ở nước ta. Toàn bộ thân chuông khắc chữ Hán, ghi lại nguồn gốc ra đời của chuông.

Theo đó, một nhà sư có tên Minh Trực, thấy chùa làng chưa có (hoặc đã có nhưng do một lý do nào đó mà phải làm lại, nên mới có từ “Tân tạo…” trên thân chuông) nên muốn tạo chuông, làm phúc, lại gặp được vợ chồng Đô đốc Trung quân Dương Bá Hợp và Lê Thị Học Thái (chưa rõ tung tích) rất mộ đạo, cùng dân làng hợp sức đúc chuông. Chuông đúc xong, có chiều cao 1,4 mét, đường kính miệng 0,7 mét, quai chuôngcon rồng một thân, hai đầu quay về hai hướng, miệng rồng ngậm ngọc, râu dài và nhọn, thân có vẩy, lưng có vây sống động. Thân chuông chia làm tám phần, ngăn cách giữa các phần là các đường gân chạy dọc. Điểm giao giữa các đường gân là một núm gõ tròn, khắc nổi. Ngoài việc ghi công đức đúc chuông, trên thân chuông còn có một số câu đối, lời bàn và một bài minh ca ngợi cảnh đẹp và sự trù phú của quê hương Khúc Toại…

hân có v

Quả chuông đồng có niên đại 400 năm tuổi

Năm 1947, giặc Pháp càn làng, nhân dân Khúc Toại phải tháo chuông giấu chìm dưới lòng sông Ngũ huyện khê. Đến mãi năm 1956, dân làng mới vớt lên, quả chuông vẫn còn nguyên vẹn và được treo trở lại tháp chuông như cũ…

6. Lễ hội truyền thống

Bên cạnh những giá trị nổi bật về kiến trúc điêu khắc và cổ vật, đình chùa Khúc Toại còn có giá trị lớn về lễ hội truyền thống. Hàng năm hội chùa ngày 14 tháng Giênghội đình ngày 6 tháng Giêng là những hội “quan họ” nổi tiếng của xứ Kinh Bắc. Quần thể di tích đình chùa Khúc Toại với những giá trị lớn nhiều mặt về kiến trúc điêu khắc, cổ vật, lễ hội không những là nét văn hiến đặc sắc của một làng nghề từng nổi tiếng trong dân gian, mà đã góp phần làm nên nét văn hiến tiêu biểu của quê hương Bắc Ninh.

Hai bát hương sành thế kỷ XIX ở chùa làng Khúc Toại

Quần thể di tích đình chùa Khúc Toại với những giá trị lớn nhiều mặt về kiến trúc điêu khắc, cổ vật, lễ hội không những là nét văn hiến đặc sắc của một làng nghề từng nổi tiếng trong dân gian, mà đã góp phần làm nên nét văn hiến tiêu biểu của quê hương Bắc Ninh.

Tham quan quần thể di tích đình chùa Khúc Toại
Chúng tôi đón chào email đăng ký từ khắp nơi và không bao giờ spam
luxstay

luxstay

Cẩm nang các địa điểm du lịch và lễ hội tại Việt Nam

Bài viết cùng chủ đề

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Tour Miền Trung