1. Bảo Sanh Đại đế là ai
Tương truyền, thần sinh trưởng ở vùng Phúc Kiến, vào thời nhà Tùy bên Trung Quốc. Từ nhỏ, ngài tỏ rõ tư chất thông minh nên được các vị tiên trên núi dạy cho phép tiên và các thuật linh đơn.
Vào tuổi thanh niên, ngài kết thân với Lâm Ngạc Nương (người sau này được sắc phong là Thiên Hậu nương nương) nhưng không lập gia đình mà rày đây mai đó, tiêu dao cùng cỏ cây mây nước và chẩn mạch, bốc thuốc cứu nhân độ thế. Danh tiếng ngài lẫy lừng khắp một miền Hoa Hạ xuống tận Giang Nam.
2. Lên núi ở ẩn
Một hôm, nghe tin thân mẫu lâm bệnh nặng, ngài vội vã trở về quê nhà nhưng không kịp nữa, thân mẫu ngài qua đời. Từ đó, ngài buồn bã trong lòng, nên xếp tất cả sách vở, y cụ vào hòm khóa lại, đưa lên gác cất còn chìa khóa thì quăng xuống sông Hoàng Hà, lên núi ở ẩn.
3. Số trời đã định, Bảo sanh Đại đế quay lại nghề thuốc, chữa bệnh cứu người
Một hôm, nghe tiếng người kêu cứu thảm thiết, ngài động lòng, tìm đến, mới hay người vợ trẻ của chàng ngư phủ đang hồi nguy kịch trong cơn vượt cạn khó khăn. Ngài không nhẫn tâm nên ra tay cứu giúp. Chàng ngư phủ vui mừng khôn tả, ngày hôm sau ra sông Hoàng Hà câu con cá chép lớn mang lên núi tặng ân nhân.
Nhận quà tạ ơn, hôm sau, ngài mang cá ra bờ sông phóng sinh nhưng lạ thay, trước khi từ biệt, cá chép cứ nhìn ngài chăm chú. Ngài đưa tay xuống nước thì trong miệng cá nhả ra chiếc chìa khóa mà hơn mười năm trước ngài từng quẳng đi. Biết là số trời đã định, ngài trở về lều tranh, lấy chiếc hòm cũ ra và bắt đầu chuyên tâm nghề thuốc, chữa bệnh cứu người. Người dân biết ơn tôn ngài là Bảo sanh Đại đế.
4. Hội đền mở vào thời gian nào
Thần Bảo sanh đại đế, vừa là một vị thần của tín ngưỡng dân gian, vừa mang dáng dấp khá tiêu biểu của Lão giáo – một trong ba tôn giáo lớn trong lịch sử Trung Hoa.
Khi di cư sang các nước Đông Nam Á, người Hoa mang theo cả vị thần Bảo sanh của mình và nhanh chóng được cả cộng đồng cư dân bản địa cùng tôn thờ.
Hội đền mở ngày rằm tháng Giêng hằng năm. Trong hội có tục “Ông lên” và “Du hồ chúng cô bát tiên“. Chuẩn bị trò này rất tốn kém nên hàng năm chỉ trình diễn trong ngày hội.
Tương truyền rằng, khi xây dựng đền Ông đạp đồng về chỉ vị trí mé rạch, mặt tiền hướng ra rạch sông cái vừng để ngăn chặn lũ tà ma yêu quái quái phá. Bổn hội lấy làm lo lắng vì chỗ này đang bị lỡ đất. Tuy nhiên khi đền xây xong thì đất không lở mà bồi lắng trở lại, nên dân trong làng càng tin tưởng. Đền được trùng tu nhiều lần và bổn hội mua thêm đất để xây dựng rộng rãi uy nghiêm như hiện nay.